Trương trọng cảnh và thương hàn tạp bệnh luận

https://www.youtube.com/watch?v=YeBL5XcZE4k

Tác giả: P’medic.

Cùng thời kỳ với Hoa Đà, còn có một Danh Y tên là Trương Trọng Cảnh được coi là “Y thánh”. Đó là Trương Cơ – người Nam Dương, tác giả cuốn Kinh Điển Y Học Trung Hoa “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận”. Trương Cơ, tự Trọng Cảnh, là người Niết Dương quận Nam Dương ở cuối thời Đông Hán, sinh vào thời Hán Hoàn Đế khoảng giữa thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3, khoảng trước sau năm 20 Kiến An thời Hán Hiến Đế.

Trương Trọng Cảnh sống vào cuối đời Đông Hán, quân phiệt hỗn chiến, đời sống bấp bênh, chiến loạn và thiên tai triền miên, hơn nữa dịch bệnh hoành hành, đã đem lại thảm họa nặng nề cho người dân.

 

Là người chứng kiến xã hội bấp bênh, Trương Trọng Cảnh đã rời bỏ lý tưởng chính trị, một lòng dốc sức vào việc nghiên cứu Y Học.

Tài chẩn đoán của Trương Trọng Cảnh rất cao siêu. Nghe nói khi hành y, Ông gặp một thanh niên tên là Vương Xán mới hơn 20 tuổi, thấy anh khí sắc kém, liền nói: “Anh có bệnh, khi 40 tuổi lông mày rụng rơi, nửa năm sau sẽ chết vì bệnh bất trị. Bây giờ nếu uống Ngũ Thạch Thang sẽ khỏi”. Nghe xong Vương Xán trong lòng không vui, tuy nhận thuốc nhưng không uống. 3 ngày sau hai người lại gặp nhau, Trương Trọng Cảnh hỏi: “Uống thuốc chưa?” Vương Xán đáp: “Đã uống rồi”. Trương Trọng Cảnh than rằng: “Xem ra hình như anh chưa uống, bạn trẻ này, sao lại coi nhẹ tính mạng mình thế?” Vương Xán cậy mình khỏe, vẫn không tin. Không ngờ 20 năm sau lông mày của anh quả nhiên rụng rơi, lại qua 187 ngày, Nhà Văn Học lớn từng viết các tác phẩm nổi tiếng như”Đăng Lầu Phú”,”Thất Ai Thi”v.v. này đã lìa cõi đời.

Cống hiến lớn nhất của Trương Trọng Cảnh là đã biên soạn cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận”.

Thương hàn là loại bệnh sốt nóng ngoại cảm, gồm nhiều bệnh truyền nhiễm cấp tĩnh. Có thể nói sự ra đời của cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận” là sản vật của thời đại và phấn đấu của cá nhân.

Nhà Khí Tượng học nổi tiếng Trung Quốc, Trúc Khả Trinh cho rằng: khí hậu trong thời Đông Hán có xu thế rét lạnh, có mấy mùa đông rét buốt, Quốc đô Lạc Dương thậm chí còn mưa tuyết trong cuối thời Xuân Thu, làm nhiều người chết rét.

Khí hậu rét lạnh, khiến dịch bệnh do cảm lạnh gây nên hoành hành khắp nơi.

Bắt đầu từ vua Linh Đế cuối thời Đông Hán, từng xảy ra nhiều đợt dịch bệnh lớn.Các Nhà Văn Học Từ Cán, Trần Lâm, Ứng Xướng, Lưu Trinh được gọi là “Thất Tử Kiến An” đã lần lượt chết vì dịch bệnh. Có 2/3 trong tổng số hơn 200 người của gia tộc Trương Trọng Cảnh cũng đã chết trong vòng chưa đầy 10 năm, mà 70 % là chết vì bệnh thương hàn. Trước cảnh người dân và người thân bị ma dịch cướp đi tính mạng, Ông Trương Trọng Cảnh đã quyết tâm tổng kết và chỉnh lý thành quả Y Học trong dân gian cũng như kinh nghiệm thực tế của mình trong nhiều năm hành y, tìm ra cách chữa có hiệu quả cho người bệnh và đem lại hạnh phúc cho người dân.

Thời Nhà Hán là một giai đoạn phát triển quan trọng của môn Y Dược Học Trung Hoa, Chuyên tác Y Học “Hoàng Đế Nội Kinh” và trước tác Dược Học “Thần Nông Bản Thảo Kinh” sớm nhất được Trung Quốc bảo tồn đến nay đều được sáng tác vào thời kỳ này.

Cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh” gọi tắt là “Nội Kinh”, là tác phẩm bàn về Y Học của các học giả thời nhà Hán được hoàn thành với danh nghĩa của Hoàng Đế và Hạ thần Kỳ Bá. Cuốn “Nội Kinh” dùng tư tưởng âm dương ngũ hành được lưu hành từ thời Xuân Thu và Chiến Quốc để giải thích hiện tượng tính mạng cũng như hoạt động sinh lý con người, đồng thời còn liên hệ giữa chức năng của ngũ tạng với môi trường bên ngoài như khí hậu, bốn mùa, mùi vị, màu sắc v.v., cho rằng hình thể con người đều là âm dương đối lập. Cuốn “Nội Kinh” còn lấy 4 loại hình: hư, thực, hàn, nhiệt để phân biệt bệnh tật, cho rằng: “Trăm bệnh xảy ra, đều có hư thực”, “Dương thắng thì nhiệt, âm thắng thi hàn”. Cuốn”Nội Kinh”đã đặt ra lý luận cơ bản cho Y Học Trung Hoa, cũng đã xác định nguyên tắc quan trọng về chẩn đoán và chữa trị.

Song lý luận Y Học của cuốn “Nội Kinh” rất huyền bí, cho nên ứng dụng lý luận Y Học trong cuốn”Nội Kinh”vào việc chữa bệnh lâm sàng, nhất là vận dụng các bài thuốc hay được lưu truyền trong dân gian vào thực tế, là một vấn đề bức xúc cần được giải quyết.

Trương Trọng Cảnh đã hấp thụ đầy đủ thành quả Y Học của các đời trước, lại khiêm tốn học hỏi các bài thuốc hay lưu truyền trong dân gian, “Bác thái chúng phương”, đã bước đầu tổng kết nguyên tắc “Biện Chứng Luận Trị” và viết thành cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận”. Đến đời nhà Tống, có người tách phần tạp bệnh ra khỏi “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận”, soạn thành cuốn “Kim Quỹ Yếu Lược”, cuốn “Thương Hàn Luận” và cuốn” Kim Quỹ Yếu Lược” đã được lưu truyền đến nay.

Trương Trọng Cảnh chia bệnh ngoại cảm thành 6 loại theo đặc trưng cơ bản, đó là bệnh Thái dương, Dương minh, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm và Quyết âm. Mỗi loại đều có cách chữa riêng và đều có chủ chứng phản ánh tình hình cơ chế bệnh lý, chẳng hạn như chủ chứng của bệnh Thái dương là sợ lạnh, sốt nóng, đau khớp v.v., chủ chứng của bệnh Thiếu dương là miệng đắng, cổ khô, mắt hoa v.v.. Như vậy, theo tình hình người bệnh có thể xác định thuộc loại bệnh gì. Đây là biện chứng.

Trương Trọng Cảnh nhìn nhận sự diễn biến của bệnh tình bằng quan điểm biện chứng chất phác, cho rằng 6 loại bệnh này không phải cô lập, bệnh chứng theo bệnh tà khác nhau, thể chất người bệnh khỏe hay yếu, thời gian chữa bệnh cũng như biện pháp thích đáng hay không v.v. có thể chuyển hóa cho nhau, Ông coi hai loại bệnh chứng cùng xuất hiện là “Hợp Bệnh”, hai loại bệnh chứng lần lượt xuất hiện là “Bính bệnh”, chẩn sai chữa sai là “Hoại Bệnh”, lần lượt chữa bằng các thang thuốc khác nhau.

Để phân tích bệnh tình một cách tường tận và khoa học, nắm được cả quá trình bệnh tật, chăm chú theo dõi nguyên nhân, thời gian phát bệnh, trạng thái lúc đầu, trạng thái thay đổi và hiệu quả chữa trị, Ông Trương Trọng Cảnh đã nêu ra phương pháp biện chứng được các người đời sau gọi là “Bát Cương”, đó là Biện Âm Dương, Định Trong Ngoài, chia Hư Thực, biện Hàn Nhiệt.

Trong thời Chiến Quốc, cách chẩn đoán: Vọng, Văn, Vấn, Thiết , tức nhìn, ngửi, nghe, hỏi, bắt mạch, được người ta gọi là phương pháp “Tứ Chẩn” đã định hình, trong cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh” cũng có ghi chép tường tận. Kết hợp với kinh nghiệm chữa bệnh của mình, Trương Trọng Cảnh đã nâng cao môn Chẩn Đoán Học tới một trình độ mới, đã cung cấp bằng chứng cho việc Luận Trị Biện Chứng.

Về cách chữa bệnh, Trương Trọng Cảnh đã sáng tạo 8 cách là: Hãn, Thổ, Hạ, Hòa, Ôn, Thanh, Bổ và Tiêu, được người đời sau gọi là “Bát Pháp”. Đây là “Luận Trị”.

Cách Hãn là dùng thuốc làm cho người bệnh ra mồ hôi. Cách Thổ là dùng thuốc khiến người bệnh nôn mửa chất độc và thức ăn khó tiêu trong dạ dày. Cách Hạ là dùng thuốc uống hay thuốc bôi ngoài khiến người bệnh tháo dạ. Cách Hòa là điều hòa và hóa giải, dùng thuốc khá ôn hòa để giảm nhẹ bệnh tình. Cách Ôn là dùng thuốc ôn nhiệt trợ giúp dương khí và trừ khử hàn tà. Cách Thanh là dùng thuốc hàn mát chữa bệnh nhiệt nóng bên trong. Cách Bổ là dùng thuốc bổ khí huyết âm dương tạng phủ không đủ để khôi phục cân bằng âm dương hoặc phù chính khử tà. Cách Tiêu là dùng thuốc tiêu dẫn và tan kết đọng để chữa các chứng đầy hơi, ngưng nước, đọng máu, tích thực v.v..

Cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận” cũng có thành tựu nổi bật về mặt dùng thuốc, cả thảy đã ghi 375 bài thuốc và 214 loại thuốc, còn quy định khá nghiêm ngặt khi pha chế, lượng thuốc, thay đổi hay thêm bớt của loại thuốc. Trương Trọng Cảnh được các người đời sau gọi là Ông Tổ của Phương Tế Học, đến nay một số bài thuốc vẫn còn sử dụng.

Cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận” đã tổng kết một cách hệ thống lý luận Y Học và kinh nghiệm chữa bệnh lâm sàng trước đời nhà Hán, đã đặt cơ sở cho Trị Liệu Học Trung Y, người đời sau có cách nói: “Lý có “Nội Kinh”, Pháp nhờ Trọng Cảnh”. Trong thời kỳ hơn 1700 năm sau, cuốn sách này không ngừng được chỉnh lý và chú giải, theo thống kê có đến hơn 700 trước tác nghiên cứu. Cuốn “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận” lưu truyền ra nước ngoài, trong đời nhà Đường, tăng lữ văn học Nhật đem cuốn sách này về Nhật, đã gây ảnh hưởng quan trọng cho sự phát triển của cuốn “Hán Phương Y” của Nhật.

Thuở nhỏ ham học, mười mấy tuổi đầu đã thông hiểu nhiều sách, nhất là sách về y học. Đời Hán Linh đế, ông được tiến cử chức Hiếu Liêm, về sau là Thái thú Trường Sa. Nhưng cả đời ông chủ yếu là theo sự nghiệp y học. Lúc nhỏ, ông từng đọc thấy trong sách sử chuyện Biển Thước xem biết bệnh của Tề Hoàn hầu, ông hết sức khâm phục y thuật cao siêu của Biển Thước, giỏi xem khí sắc của người mà chẩn đoán bệnh tật, và nảy sinh ý niệm học ngành y. Ông theo học thuốc với người đồng hương là danh y Trương Bá Tổ, được thầy truyền dạy kinh nghiệm và kỹ thuật. Ông học giỏi đến mức, về mặt chẩn đoán và ra đơn thuốc điều trị vượt hơn cả người thầy. Ông hành nghề vào cuối đời Đông Hán. Lúc đó, các nước tranh nhau, chiến tranh liên miên làm cho bệnh dịch lưu hành, người ta chết rất nhiều, thậm chí chết hết cả họ. Gia tộc của ông có hơn 200 ngươi,từ năm Kiến An (công nguyên 196) đến sau, chưa đầy 10 năm đã chết mất hai phần ba, trong đó chết vì bệnh thương hàn là bảy phần mười. Trước cảnh tượng đau thương ‘người đắm chìm trong tang tóc, muốn cứu mà không cứu được, ông càng quyết tâm tìm học. ông nghiên cứu sâu về các sách y học xưa như ‘Tố Vấn’, ‘Cửu Quyển’, ‘Bát Thập Nhất Nan’, ‘Âm Dương Đại Luận’, ‘Thai Lô Dược Lục’, rút ra những hiểu biết phong phú, rồi thu nhặt các phương thuốc danh tiếng xưa nay và các phương thuốc kinh nghiệm trong dân gian, kết hợp với kinh nghiệm của các y gia đương thời và của mình đã tích lũy trong nhiều năm, biên soạn một bộ sách thuốc vĩ đại chưa từng có ‘Thương Hàn Tạp Bệnh Luận’ bao quát hai phần là ‘thương hàn’ và ‘tạp bệnh’. Sách viết xong, trải qua binh hỏa chiến loạn, bị mất đi phần nào. Về sau, ở đời Tấn, Vương Thúc Hòa lượm lặt, chỉnh lý, viết lại. Đến đời Tống là hai quyển sách thuốc hiện còn đến nay là  ‘Thương Hàn Luận’ và ‘Kim Quỹ Yếu Lược’.

Quyển ‘Thương Hàn Tạp Bệnh Luận’ của Trương Trọng Cảnh đã tổng kết một cách có hệ thống những kinh nghiệm phong phú của ngành y học Trung Quốc từ đời nhà Hán trở về trước, xác định nguyên tắc cơ bản của Trung y, biện chứng điều trị, đã phong phú hóa và phát triển lý luận y học và phương pháp trị liệu, đặt vững cơ sở các khoa lâm sàng của Trung y, là một bộ kinh điển y học trứ danh. Bộ sách đã cống hiến lớn lao cho sự phát triển học thuật Trung y. Hơn 1700 năm nay, sách này luôn được y giới các đời tôn sùng.

Trước mắt, sách này vẫn là một tài liệu dạng học kinh điển chủ yếu của Học viện Trung y Trung Quốc. Đối với y học thế giới, nhất là sự phát triển ngành y của các nước châu Á, sách ‘Thương Hàn Tạp Bệnh Luận’ cũng có ảnh hưởng sâu xa. Nhật Bản đến nay vẫn thích dùng các đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh để trị bệnh.

Hai bài thuốc nổi tiếng của Trương Trọng Cảnh

Trong giới y học cổ truyền Việt Nam chắc không ai là không biết, không thuộc hai bài thuốc cổ phương Bát vị và Lục vị, một bài đại diện cho chứng âm hư, một bài đại diện cho chứng dương hư. Nhưng xuất xứ 2 bài thuốc thì chưa chắc ai cũng biết. Vậy 2 bài thuốc cổ phương này ra đời trong hoàn cảnh nào?

Năm 2006 trước Công nguyên thời Tây Hán, Hán Vũ Đế tên thật là Lưu Triệt, sách sử ghi rằng Lưu Triệt muốn cho mình khỏe mạnh, cải lão hoàn đồng nên đã uống nhiều “đan sa”, biến chứng phát sốt dữ dội, khát nước nhiều, đi tiểu liên tục mà không thuốc nào chữa khỏi. Trương Trọng Cảnh bấy giờ là đại phu chữa bệnh cho Lưu Triệt đã nghĩ ra hai phương thuốc: bát vị và lục vị. Nhờ thế mà nhà vua đã khỏi bệnh. Nguyên văn hai bài thuốc như sau:

Bài thuốc Bát vị quế phụ”: Thục địa 8 chỉ, hoài sơn 4 chỉ, sơn thù 4 chỉ, đan bì 3 chỉ, trạch tả 3 chỉ, bạch linh 3 chỉ, quan quế 1 chỉ, phụ tử 1 chỉ.Tất cả 8 vị thuốc tốt nên gọi là bát vị.

Cách sao tẩm như sau: Thục địa thứ tốt tẩm gừng tươi sao khô. Hoài sơn tẩm nước cơm sao khô. Sơn thù bỏ hạt, tẩm rượu sao khô. Trạch tả tẩm nước muối loãng sao khô. Bạch linh tẩm sữa con so sao khô. Phụ tử đã chế mới đem dùng.

Chủ trị: Chân thận hỏa hư, chân thủy vượng làm cho mỏi mệt. Hạ bộ hàn lãnh, đau lưng, mỏi gối, lưng lạnh, đái đêm nhiều. Đại tiện phân lỏng, bần thần nặng đầu, hay quên, lừ đừ, ngái ngủ.

Bài thuốc tồn tại cho tới ngày nay đã hơn 2000 năm. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác khi xưa đánh giá rất cao bài bát vị và đã dùng bài thuốc này chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Ông dùng bài “bát vị” làm xương sống, căn cứ vào chứng mà gia giảm. Sau đây là phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông:

– Tạng thận yếu mà đi lị lâu tăng vị Thăng ma, Phá cố chỉ đều 2 chỉ (2 chỉ = 3,75g).

– Mạch xích 2 bên hồng mà sác là chân âm kém, bội Quế, Phụ tử lên 2 chỉ.

– Mạch bộ thốn bên trái vô lực là khí, tạng can suy nhược, bội Sơn thù lên 3 chỉ.

– Mạch bộ quan bên phải vô lực là tỳ vị hư yếu, bội Phục linh, Trạch tả lên 2 chỉ.

– Hỏa dạ dày quá mạnh mà thành hoàng đản, sốt về chiều, miệng lở, chóng đói, bội Mẫu đơn.

– Khí dạ dày yếu mà lạnh (hư hàn), đầy trướng, sôi bụng bội Phục linh, Trạch tả lên 2 chỉ, lại bội Quế, Phụ tử thêm 1 chỉ. Dương suy, tinh kém thêm Lộc nhung, Tử hà sa. Tạng thận yếu không đem được nguyên khí về chỗ, đi tiểu nhiều, thở suyễn, nôn ọe bội Ngũ vị tử, Ngưu tất.

“Bài lục vị”

Trương Trọng Cảnh dùng bài “bát vị” nhưng bỏ đi 2 vị Quế và Phụ tử. Còn lại 6 vị gọi là bài “Lục vị”. Bài thuốc: Hoài sơn 4 chỉ, Thục địa 8 chỉ, Sơn thù 4 chỉ, Đan bì 3 chỉ, Trạch tả 3 chỉ, Bạch linh 3 chỉ.

Chủ trị: Thận thủy suy kém, tinh khô, huyết kiệt đau lưng, mỏi gối, di tinh, khát nhiều, đái rắt, can thận suy yếu, hoa mắt, chóng mặt, phát sốt, nóng âm, da, tóc khô xỉn, mắt mũi nám đen, lưỡi khô ráo khát. Đối với phụ nữ nhan sắc ngày càng tàn tạ, nóng nảy, các chứng trẻ em chậm biết đi, tóc mọc chậm, chậm biết nói…

Phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông:

– Người gầy đen, khô táo thêm thục địa, bớt Trạch tả.

– Tính nóng nảy, hay cáu giận bớt Sơn thù thêm Đan bì, Bạch thược, Sài hồ mỗi vị 2 chỉ.

– Lưng mỏi thêm Đỗ trọng tẩm muối sao.

– Tì vị hư yếu, ăn ít mà ngoài da lại khô xỉn tăng Hoài sơn.

– Chứng đại đầu thống (nhức đầu quá mạnh), nếu người bệnh yếu lắm không nên dùng nhiều thuốc lạnh, mát mà chỉ nên dùng lục vị nhưng bội thêm Thục địa, Mẫu đơn bì, Trạch tả, Huyền sâm, Ngưu tất mỗi vị 3 chỉ. Nếu hỏa quá mạnh thêm Tri mẫu, Hoàng bá mỗi vị 2 chỉ.

– Phụ nữ huyết khô, kinh bế, thiếu máu, xây xẩm ăn kém thêm Xuyên quy, Bạch chỉ mỗi vị 2 chỉ, Quế tốt 1 chỉ.

– Chứng bạc đầu, rụng tóc thêm Hà thủ ô 2 chỉ nhưng phải uống cho nhiều (vài chục thang) có thể hồi xuân.

– Mờ mắt thêm Kỷ tử, Cúc hoa, Sài hồ, mỗi vị 2 chỉ.

Hải Thượng Lãn Ông nói: Tôi kinh nghiệm hằng 30 năm, chữa khỏi được nhiều bệnh trầm trọng, cũng chỉ căn cứ vào 2 khiếu âm và dương, cũng chỉ trông vào 2 bài “bổ thủy và bổ hỏa” (Bát vị và Lục vị) khác biệt với các thầy khác mà thôi! Vậy thủy hỏa là căn bản để sinh ra con người, nhưng thủy là chân của hỏa cho nên phải tương giao mà không lìa được nhau. Lại phải quân bình mà không bên nào được hơn lên. Tính của hỏa bốc lên thì phải đem trở xuống. Tính của thủy nhuận xuống thì phải đem trở lên. Hỏa ở trên, thủy ở dưới gọi là tương giao tức thủy hỏa ký tế (nước và lửa đã làm xong việc). Hỏa ấy gọi là dương khí, thủy ấy gọi là âm khí, 2 bên cần phải có nhau, dựa vào nhau thì gọi là âm dương hòa bình.

Người nào chân âm của tạng thận không đầy đủ tức bổ mạch xích bên trái hư yếu, đi tế, sác thời dùng bài “Lục vị”.

Còn người nào chân dương không đầy đủ, tức hỏa mệnh môn không được đầy, bổ mạch xích bên phải đi tế, sác thì dùng bài “Bát vị”.

Hải Thượng Lãn Ông nói thêm: Xem như thế mới biết bách bệnh đều bởi hư yếu mà ra. Mà hư yếu phần nhiều bởi tạng thận. Nội kinh nói: “Gặp chứng hư yếu phải bội tạng thận để giữ lấy mệnh môn”. Nội kinh nói thêm: “Việc làm thuốc mà biết được yếu lĩnh thì mọi cái là xong. Không biết được yếu lĩnh thì man mác vô cùng!”.

Hải Thượng Lãn Ông kết luận: “Đem phương pháp để chữa một bệnh suy rộng ra có thể chữa được bách bệnh. Mà phương pháp chữa được bách bệnh về căn bản cũng như chữa được một bệnh vậy!”.

 

DANH SƯ CAO ĐỒ

Trương Trọng Cảnh từ nhỏ theo Trương Bác Tổ học y. Trương Bá Tổ vừa là thầy lại vừa là bác của Trương Trọng Cảnh, rất nghiêm khắc đối với Trọng Cảnh. Trương Trọng Cảnh ban ngày theo bá phụ trị bệnh cho dân chúng, buổi tối dưới ánh đèn chăm chỉ học y thư, nên y thuật tiết bộ rất nhanh.

Một hôm, gặp một bệnh nhân cao tuổi, thầy và trò thấy tinh thần người bệnh ủy mị, môi miệng khô, trán nóng bỏng tay. Trương Bá Tổ sau khi khám nói rằng: “Bệnh tà đã nhập vào vị tràng, nhiệt thịnh thương tân, phân khô không thể tống ra, chỉ có dùng thuốc tả hạ mới có thể cho đại tiện thông sướng. Nhưng bệnh nhân tuổi cao, thân thể lại hư, uống thuốc tả hạ có thể chịu được không, cân nhắc nhiều lần, không đưa được chủ ý.

Trương Trọng Cảnh đứng ở bên cạnh, thấy bác mình bó tay ngồi nhìn nghĩ một lát, nói với bác: “Cháu có một cách”, rồi nói rành rọt cách nghĩ của bản thân cho bác nghe. Trương Bá Tổ nghe xong phấn khởi nói: “được! cháu mau đi trị bệnh đi”.

Trương Trọng Cảnh cầm lại một thìa mật ong, cho vào trong một nồi đồng, một mặt đun nhỏ lửa, một mặt dùng đũa quấy đảo. Ước chừng sau qua một khắc, mật ong nấu thành dạng hồ sền sệt đặc dính. Nhân lúc còn nóng, nặn mật ong thành dải nhỏ dài, nhét nhè nhẹ vào trong hậu môn bệnh nhân. Khoảng qua thời gian một bữa cơm, trong bụng của bệnh nhân phát ra tiếng lục bục, rất nhanh, đi ngoài ra một đống phân, bệnh tình giảm nhẹ một nửa, chưa được vài ngày, người bệnh khỏe lên.

Trương Bá Tổ xem cháu dùng phương pháp điều trị kỳ diệu như vậy trị khỏi bệnh, nói một cách phấn khởi “tài quá, cháu mạnh dạn sáng tạo như vậy, có người kế tục Trung Y rồi”.

Write a comment

Your email address will not be published. All fields are required