Người xưa đã phòng chống lũ lụt như thế nào? Câu trả lời được ẩn giấu trong bài viết này
Người xưa đã phòng chống lũ lụt như thế nào? Câu trả lời được ẩn giấu trong bài viết này
P' medic| Hà nội, ngày 9/11/2024Danh y Lôi Doãn Thượng và bài thuốc Lục Thần Hoàn
LÔI DOÃN THƯỢNG LỤC THẦN HOÀN
Tác dụng: Thanh lương giải độc, tiêu viêm chỉ thống. Dùng cho chứng loét họng, hầu họng sưng đau, viêm họng, sưng tấy vú, mụn nhọt, đau tấy, trẻ em chốc lở và các loại nhọt độc khác. 雷允上六神丸 - 吴门医派之奇药 (Lôi Doãn Thượng Lục Thần Hoàn - Ngô Môn Y Phái Chi Kỳ Dược) DẪN: • Tô Châu thành (苏州城) - cổ xưng Ngô Trung (吴中), là nơi danh y bối xuất, y trước hạo hãn. Tính từ thời Chu cho đến nay, theo sử chép, Ngô Trung danh y có tới hơn ngàn người. Mỗi người lại mỗi phương bản lĩnh học thuật riêng có, do đó, mà đã hình thành lên một Ngô Môn y phái đầy đặc sắc! ... • Nói đến Ngô Môn y phái là phải nói đến danh y Diệp Thiên Sỹ. Ông là người khai sáng ra Ôn bệnh học thuyết, chắp nối cho linh và hồn của Ôn bệnh học được hòa vào nhau làm một thể. Sau Diệp Thiên Sỹ, các hậu nhân Ngô Môn y gia như: Mâu Tuấn Nghĩa, Tiết Tuyết, Thiệu Đăng Doanh, Lôi Doãn Thượng,... đã tiếp tục kế thừa, chỉnh lý, hoàn thiện học thuyết này của ông,... đưa nó đạt tới đỉnh cao mới trong lịch sử Trung y học. • Và cũng nhờ sự truyền lưu không ngừng nghỉ ấy, đã thúc đẩy dược nghiệp của Ngô Trung phát triển mạnh mẽ, tạo ra rất nhiều Ngô Môn kỳ dược vang danh thiên hạ. Trong số đó phải kể đến "Lôi Doãn Thượng Lục Thần Hoàn" - một kỳ dược trăm năm - đại biểu cho tinh hoa trong tinh hoa học thuật của Ngô Môn y phái! NGUỒN GỐC VÀ LƯU TRUYỀN: • Tương truyền năm Khang Hy thứ 54 - 1715, tú tài Lôi Đại Thăng (雷大升), tự Doãn Thượng (允上) vào thành ứng thí, nhưng do hoạn bệnh nên không như nguyện. Sau ông phát tâm lành tế thế nên đã từ Nho mà theo Y. Nhân duyên, ông bái Vương Tử Tiếp làm thầy, cùng Diệp Thiên Sỹ là đồng môn sư huynh đệ, vì vậy mà, cuộc đời và y nghiệp sau này của ông chịu ảnh hưởng vô cùng sâu sắc từ học thuật của Diệp Thiên Sỹ. • ... Năm Ung Chính thứ 24 - 1734, Lôi Đại Thăng mở Lôi Tụng Phân Đường (雷诵芬堂) tại cửa Xương Môn, thành Tô Châu. Lấy hai chữ "Doãn Thượng" làm bài hiệu, ông đích thân tọa nội đường hành y trị bệnh. Lôi Đại Thăng thâm đắc tinh hoa Ôn bệnh học thuyết, kết hợp hành y và chế dược với nhau, kiềm tu trung dược cao đơn hoàn tán, tạo phúc nhất phương bách tính. Do trị bệnh hữu phương, nên y danh của ông sớm vang tứ trấn. • Tới năm 1860, do cả vùng Giang Nam chiến loạn bùng phát, Tô Châu Lôi Doãn Thượng dược phòng bị hủy hoại bởi đạn lửa, Lôi thị hậu nhân buộc lòng phải sơ tán tới Thượng Hải. Để trùng hưng tổ nghiệp, tới năm 1862, Lôi thị hậu nhân đã dốc tâm kiến lập lại Lôi Doãn Thượng dược phòng. • Đến năm Đồng Trị thứ 3 - 1864, Lôi Tử Thuần dựa vào mật phương tổ truyền, sau bao lần nghiên cứu, thử nghiệm, đã bào chế thành công Lục Thần Hoàn - một loại thuốc mới đặc trị ngoại chứng và yết hầu viêm chứng thửa bấy giờ. CỔ PHÁP BÀO CHẾ: • Để bào chế lên thuốc này, Lôi Doãn Thượng đã hao tâm, dốc lực tinh tuyển từng dược vị. Ví như: Trân châu phải chọn Tân Quang Châu, Lão Cảng Liêm Châu, mà không dùng Trân châu nuôi cấy. Xạ hương dù đắt đỏ nhưng vẫn sử dụng ĐỖ XẠ HƯƠNG (杜麝香) thuần thiên nhiên. Thiềm tố tuyển dụng loại lấy trực diện, vào mùa xuân hạ hàng năm, Lôi Doãn Thượng đều sử dụng nhân công cạo thủ công Tô tương từ tuyến sau tai và tuyến dưới da của cóc sống. Lúc cạo Thiềm tố, để bảo đảm sự thuần tịnh của Thiềm tố, cấm kỵ cạo mạnh gây chảy máu da cóc. Thiềm tố tươi này sau đó được đem phơi khô qua ánh nắng, nếu trời mưa thì dùng lửa lớn hong khô mà thành ĐỖ THIỀM TỐ (杜蟾酥) - chất lượng thuần tịnh vượt xa loại thị trường cung ứng là KHÁCH TÔ (客酥),... • Sau khi hoàn thành công đoạn tuyển liệu, họ đem: Ngưu hoàng, Xạ hương, Trân châu, Hùng hoàng, Băng phiến nghiền bột mịn, tửu hóa Thiềm tố làm hoàn, cuối cùng dụng Bách thảo sương làm áo mà chế lên Lục Thần Hoàn. • Khác với các loại thuốc hoàn của phương Bắc thường là loại đại hiệu, khó uống khó nuốt, Lục Thần Hoàn chế hoàn nhỏ như Kinh giới tử, nghìn viên mới nặng 3.125g. Từng viên hoàn nhỏ bé đều đặn, bề mặt nhẵn sáng, đen bóng; vì toàn quá trình bào chế đều thủ công, càng làm cho Lục Thần Hoàn phủ lên thêm một màu huyền bí. • Quá trình bào chế thủ công này gọi là Phiếm Hoàn (泛丸) - là công nghệ bí mật, lúc chế hoàn chỉ có truyền miệng không ghi chép, mỗi người phụ trách một khâu, nên nó chỉ được chân truyền trong Lôi Doãn Thượng suốt hơn 150 năm qua! PHỐI PHƯƠNG TINH DIỆU • Bản phương lấy phương châm: dĩ độc công độc, dĩ độc giải độc, phối dụng: Ngưu hoàng, Xạ hương làm chủ dược, giúp thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng tán kết; Thần dược dĩ Băng phiến trợ thanh nhiệt giải độc, hóa phủ tiêu thũng chi công; Thiềm tố gia công độc giải độc tiêu thũng chỉ thống chi lực; Tả dụng Trân châu giải độc hóa phủ sinh cơ (sách 《Thánh Tễ Tổng Lục》chép: lấy Ngưu hoàng và Trân châu phối ngũ nghiền bột mịn chế thành Châu Hoàng Tán, thổi vào vùng hầu họng trị chứng yết hầu sưng đau, vòm họng nhiệt loét,...), Hùng hoàng giải độc tán kết sát trùng tiêu viêm. Lục dược hợp dụng, cộng tấu thanh lương giải độc, tiêu viêm chỉ thống chi công, giúp an "tâm, phế, can, đởm, tỳ, thận chi Lục Thần". Quả là lương dược trị nhiệt độc gây ra các chứng yết hầu sưng đau, ung sang nở ngứa bất kỳ! CÔNG DỤNG CHỦ TRỊ • Do quá trình tuyển liệu tỷ mỷ, bào chế tinh lương, nên những viên hoàn tuy nhỏ bé này lại chứa đựng trong mình một dược lực vô cùng mạnh mẽ! • Công dụng: thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, tiêu thũng, tán kết, chỉ thống • Chủ trị: các chứng nhiệt độc uẩn kết gây Lạn hầu đan sa (sốt tinh hồng nhiệt), yết hầu sưng đau, hầu phong hầu ung (viêm họng cấp và mạn tính), đơn song nhũ nga (viêm amidan), tiểu nhi nhiệt tiết (rôm sảy), ung dương đinh sang (mẩn ngứa, viêm da bất kỳ), nhũ ung phát bối (giời leo/, zona thần kinh), vô danh thũng độc,... • Nghiên cứu dược lý ngày nay đã chứng minh: Lục Thần Hoàn có tác dụng kháng virus, kháng viêm giảm đau, tăng cường công năng miễn dịch, cường tim, kháng ung thư,... Lâm sàng có thể dùng trị liệu: (1). Các bệnh viêm nhiễm như: viêm họng cấp và mạn tính, viêm amidan cấp tính, hầu họng sưng đau nung mủ, bạch hầu, viêm hạch bạch huyết, viêm hạch vùng mặt cổ, viêm quanh chân răng, viêm tuyến mang tai, trẻ nhỏ rôm sảy, viêm tuyến vú, viêm nang lông; (2). Các bệnh truyền nhiễm như: sốt virus, quai bị, sốt xuất huyết, thủy đậu, phong chẩn, viêm gan virus; (3). Các bệnh rối loạn công năng miễn dịch như: viêm phế quản, hen phế quản mạn, viêm loét đại tràng, trẻ nhỏ thấp chẩn,... ; (4). Các bệnh ung thư như: ung thư máu, ung thư thực quản, ung thư tâm vị,... CÁCH DÙNG: • Lục Thần Hoàn vừa có thể uống trong, vừa có thể dùng ngoài: • Uống trong: ngày uống 3 lần với nước ấm. Trẻ 1 tuổi uống mỗi lần 1 viên; trẻ 2 tuổi uống mỗi lần 2 viên; trẻ 3 tuổi uống mỗi lần 3 – 4 viên; trẻ 4 – 8 tuổi uống mỗi lần 5 – 6 viên; trẻ 9 – 15 tuổi uống mỗi lần 6 – 9 viên, người trưởng thành uống mỗi lần 10 viên. • Dùng ngoài: lấy 10 viên, nghiền nhỏ hòa bôi vùng bệnh, nếu vùng bệnh đã nở loét thì cấm dùng. KIÊNG KỴ • Lục Thần Hoàn điều trị bệnh hầu họng, đinh nhọt, nở ngứa rất hiệu quả; tuy là lương dược giải độc, nhưng "Không" được dùng Lục Thần Hoàn làm thuốc dự phòng rôm sảy ở trẻ nhỏ trong mùa hè. • Phụ nữ có thai cấm dùng • Do Lục Thần Hoàn có thành phần đặc biệt có tác dụng làm cường tim, nếu uống quá liều sẽ gây ra sự tắc nghẽn trong dẫn truyền của tim, làm tim đập chậm, nhịp không đều, thậm trí gây ngộ độc: buồn nôn, nôn, đau bụng, tê miệng, tê bì tay chân, tức ngực, trống ngực, nghiêm trọng có thể gây hôn mê, bất tỉnh. • Do đó không được lạm dụng hoặc tự ý sử dụng thuốc này khi chưa được bác sỹ khám và kê đơn. Y ÁN TINH TUYỂN (Chu Lương Xuân dụng dược Lục Thần Hoàn) (1). Bệnh án 01: Hồng tuyến xà (红线蛇) Ngô mỗ, nam 32 tuổi. Dưới da vị trí bờ trong ngón tay cái bên phải xuất hiện một đường như chỉ đỏ, kéo dài tới gần nếp gấp khuỷu tay phải, tự cảm giác thấy nóng rát vô cùng. Khởi phát chỉ có ở bờ trong ngón tay cái bên phải, sau trị liệu tại y tế địa phương nhiều ngày không đỡ, mà còn xuất hiện lan dọc thêm đến nếp gấp khuỷu tay phải. Chu lão quan sát biện chứng cho rằng do hỏa độc gây ra, chẩn đán "hồng tuyến xà" - là chứng ác độc hiếm gặp. Loại bệnh này chỉ sợ độc khí quy tâm, buộc phải dùng ngay Lục Thần Hoàn 1 bình (30 viên), nghiền bột mịn, dùng lọ kín bảo quản, dặn đem thuốc về dùng cao sơn dầu (dầu chè) hòa đều, bôi đều vùng bệnh, ngày nhiều lần. Kết quả sau 5 ngày xoa thuốc, hồng tuyến xà đã thoái tận, bệnh lui! (2). Bệnh án 02: Triền hỏa đan (缠火丹). Từ mỗ, nữ, 65 tuổi. Lúc vào khám, phía sau mu bàn tay trái xuất hiện 3 nếp gồ lên mặt da, , hình như vòng đeo tay, to nhỏ không đều, sưng nề, đau đớn, ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Lúc dùng tay gãi chảy dịch màu vàng. Điều trị tây y bằng thuốc tiêm, thuốc uống, rồi sau thuốc thang đông y đều không hiệu quả. Chu lão quan sát triệu chứng, biết do hỏa độc gây ra, chẩn đoán "triển hỏa đan", lập tức cho dùng Lục Thần Hoàn một bình (30 viên) nghiền bột mịn, dùng lọ kín bảo quản, dặn đem thuốc về dùng cao sơn dầu (dầu chè) hòa đều, bôi đều vùng bệnh, ngày nhiều lần. Ngoài ra kê đơn: Sinh địa 15g, Bạch thược 12g, Đương quy 10g, Xuyên khung 7g, Ngân hoa 12g, Liên kiều 12g, Huyền sâm 10g, Hoàng kỳ 12g, Địa phu tử 7g, Bạch tiên bì 12g, 03 thang, sắc uống ngày 01 thang sáng chiều. Nhị chẩn: bệnh đỡ quá bán, quan sát thấy vùng bệnh da khô, có vẩy trắng bong chóc, hồng điểm nhạt dần, thu nhỏ. Thủ phương như trên thêm phòng phong 10g, Kinh giới 10g, Tật lê 18g. Tam chẩn: da vùng bệnh bong vẩy đều, sắc nhạt dần, không ngứa, hỏa đan thoái, bệnh lui! (3). Bệnh án 03: Đới trạng bào chẩn (带状疱疹) Từ mẫu, nam, 23 tuổi, vùng lưng mọc nhiều mụn nước gồ ghề mặt da, vùng da đỏ, đau, ngứa không chịu nổi, đặc biệt sau khi mụn nước vỡ ra thì đau ngứa vô cùng, cùng với đó da vùng mụn nước vỡ ra sẽ lại mọc thêm nhiều mụn giống thế. Bệnh nhân khám tại y tế địa phương chẩn đoán triền yêu xà (缠腰蛇), bác sỹ nói bệnh tình nghiêm trọng, kê vài thang thuốc, sau uống bệnh không chuyển biến mà tăng nặng thêm. Sau đến khám, Chu lão cho rằng hỏa độc gây ra, chẩn đoán "đới trạng bào chẩn". Y lệnh Lục Lục Thần Hoàn 1 bình (30 viên), nghiền bột mịn, dùng lọ kín bảo quản, dặn đem thuốc về dùng cao sơn dầu (dầu chè) hòa đều, bôi đều vùng bệnh, ngày nhiều lần. Kết quả sau 7 ngày xoa thuốc, mụn nước đã thoái tận, bệnh lui!100 cụm từ tiếng trung thiết thực về y khoa
100 cụm từ tiếng trung thiết thực về y khoa cập nhật
Nền y học Trung Quốc có những loại thuốc kỳ diệu và bí ẩn. Các khách du lịch cũng rất thích tìm hiểu cũng như mua tặng những sản phẩm y tế của Trung Quốc mỗi khi đi du lịch. Vì vậy, hãy cùng nhà thuốc Quốc Dân tìm hiểu và ghi nhớ 100 từ vựng tiếng Trung y khoa thiết thực và luôn được cập nhật mới nhất (bản cập nhật 2024). Các bạn giúp mình bằng cách góp ý những từ mới nhé.1 | 我病了 | wǒbìngle | Tôi bị ốm |
2 | 更年期 | gēngniánqī | Tiền mãn kinh |
3 | 癌症 | áizhèng | Ung thư |
4 | 不孕症 | bùyùnzhèng | Hiếm muộn |
5 | 中风 | zhòngfēng | Đột quỵ |
6 | 过敏 | guòmǐn | Dị ứng |
7 | 便泌 | biànmì | Táo bón |
8 | 医院 | yīyuàn | Bệnh viện |
9 | 同仁堂 | TóngRénTáng | Đồng Nhân Đường |
10 | 退烧药 | tuìshāoyào | Thuốc hạ sốt |
11 | 发烧 | fāshāo | Bị sốt |
12 | 感冒 | gǎnmào | Bị cảm mạo |
13 | 高血压 | gāoxuèyā | Cao huyết áp |
14 | 椎间盘突出症 | Chuíjiānpán túchū zhèng | Thoát vị đĩa đệm |
15 | 痔疮 | Zhìchuāng | Bệnh trĩ |
16 | 头疼 | tóuténg | Đau đầu |
17 | 沮丧 | Jǔsàng | Trầm cảm |
18 | 烧伤 | Shāoshāng | Bị bỏng |
19 | 哮喘 | Xiāochuǎn | Hen suyễn |
20 | 腹泻 | Fùxiè | Tiêu chảy |
21 | 膝关节退行性关节炎 | Xī guānjié tuìxíng xìng guānjié yán | Thoái hóa khớp gối viêm khớp |
22 | 恶心 | ěxīn | nôn mửa |
23 | 胆固醇 | Dǎngùchún | Mỡ máu (cholesterol) |
24 | 佝偻病 | Gōulóubìng | Còi xương |
25 | 生长缓慢 | shēngzhǎng huǎnmàn | Chậm lớn |
26 | 消化不良 | xiāohuà bùliáng | Tiêu hóa kém |
27 | 维生素 | Wéishēngsù | Vitamin |
28 | 流鼻涕 | liúbítì | Chảy nước mũi |
29 | 抽筋 | chōujīn | Chuột rút |
30 | 精神病 | jīngshénbìng | Bệnh tâm thần |
31 | 心血管 | xīn xiěguǎn | Tim mạch |
32 | 早泄 | Zǎoxiè | Xuất tinh sớm |
33 | 云南白药 | Yúnnán báiyào | Vân Nam Bạch Dược |
34 | 糖尿病 | Tángniàobìng | Bệnh tiểu đường |
35 | 月经 | Yuèjīng | Hành kinh nguyệt |
36 | 安宫牛黄丸 | Ān gōng niú huáng wán | An cung ngưu hoàng hoàn |
37 | 益母草 | Yìmǔcǎo | Cỏ ích mẫu |
38 | 避孕套 | bìyùn tào | Bao cao su |
39 | 避孕药 | bìyùn yào | Thuốc tránh thai |
40 | 胃 气 | wèi qì | Đầy hơi |
41 | 急救 装备 | jíjiù zhuāngbèi | Đồ dùng cấp cứu |
42 | 创可贴 | chuāngkětiē | Băng dán urgo |
43 | 止痛剂 | zhǐtòng jì | Thuốc giảm đau |
44 | 胃溃疡 | Wèi kuìyáng | Loét dạ dày |
45 | 食物中毒 | shíwù zhòngdú | Ngộ độc thực phẩm |
46 | 肺炎 | fèiyán | Viêm phổi |
47 | 咽喉炎 | Yānhóu yán | Viêm họng |
48 | 咳嗽 | késòu | Ho |
49 | 住院 | zhù yuàn | Nhập viện |
50 | 病床 | bìngchuáng | Giường bệnh |
51 | 药房 | yào fáng | Nhà thuốc |
52 | 梅毒 | Méi dú | Bệnh giang mai |
53 | 虫病 | chóng bìng | Bệnh giun (kí sinh) |
54 | 荨麻疹 hoặc 风疹快 | Xúnmázhěn hoặc Fēngzhěnkuài | Nổi nốt mày đay |
55 | 疝气 | Shànqì | Bệnh thoát vị (bẹn, bụng,...) |
56 | 皮肤科 | pífū kē | Khoa da liễu |
57 | 脑外科 | nǎo wàikē | Khoa não |
58 | 矫形外科 | jiǎoxíng wàikē | Khoa ngoại chỉnh hình |
59 | 儿科 | érkē | Khoa nhi |
60 | 放射科 | fàngshè kē | Khoa phóng xạ |
61 | 口腔科 | kǒuqiāng kē | Khoa răng hàm mặt |
62 | 妇产科 | fù chǎn kē | Khoa phụ sản |
63 | 耳鼻喉科 | ěrbí hóu kē | Khoa tai mũi họng |
64 | 肚子疼 | Dùzi téng | Đau bụng |
65 | 坐骨神经痛 | Zuògǔshénjīng tòng | Đau thần kinh tọa |
66 | 失眠药 | Shīmiányào | Thuốc mất ngủ |
67 | 发炎 | Fāyán | Bị viêm (nói chung) |
68 | 耳鸣 | Ěrmíng | Ù tai |
69 | 不要再抽烟了 | bùyào zài chōuyānle | Không được hút thuốc nữa |
70 | 我嗓子疼, 鼻子还堵 | Tôi bị viêm họng, nghẹt mũi | Tôi bị đau họng, nghẹt mũi |
71 | 中医 | Zhōngyī | Trung Y (Y học Trung Quốc) |
72 | 中成药 | Zhōng chéngyào | Thuốc Đông Y (bào chế hiện đại) |
73 | 青光眼 | Qīngguāngyǎn | Bệnh tăng nhãn áp |
74 | 肾石 | Shèn shí | Sỏi thận |
75 | 过期 | Guòqí | Quá hạn (thuốc, thực phẩm) |
76 | 常规体检 | chángguī tǐjiǎn | Khám sức khỏe tổng quát |
77 | 外科手术 | Wàikē shǒushù | Phẫu thuật |
78 | 体检表 | Tǐjiǎn biǎo | Giấy khám sức khỏe |
79 | 试验 | Shìyàn | Xét nghiệm |
80 | 超声 | Chāoshēng | Siêu âm |
81 | 食物 中毒 | shíwù zhòngdú | Ngộ độc thực phẩm |
82 | 外科 | wàikē | Ngoại khoa |
83 | 骨折 | gǔ zhé | Gãy xương |
84 | 冬虫夏草 | dōng chóng xià cǎo | Con Đông trùng hạ thảo |
85 | 脚趾 | jiǎozhǐ | Ngón chân |
86 | 胸口 | xiōngkǒu | Ngực |
87 | 眼科 | yǎnkē | Nhãn khoa |
88 | 卫生员 | wèishēngyuán | Nhân viên vệ sinh |
89 | 血库 | xuèkù | Ngân hàng máu |
90 | 医务人员 | yīwù rényuán | Nhân viên y tế |
91 | 内科 | nèikē | Nội khoa |
92 | 手术 | shǒushù | Phẫu thuật |
93 | 肺 | fèi | Phổi |
94 | 病房 | bìngfáng | Phòng bệnh |
95 | 隔离病房 | gélí bìngfáng | Phòng cách ly |
96 | 急诊室 | jízhěn shì | Phòng cấp cứu |
97 | 理疗室 | lǐliáo shì | Phòng vật lý trị liệu |
98 | 牙 | yá | Răng |
99 | 肚脐 | dùqí | Rốn |
100 | 疤痕 | bāhén | Sẹo |
Xyanua, “Vua chất độc” sẽ giết chết bạn khi bạn hít phải nó?
Xyanua, "Vua chất độc" sẽ giết chết bạn khi bạn hít phải nó?
Trong “Thám Tử Lừng Danh Conan”, Conan thường ngửi miệng người đã khuất, mùi hạnh nhân đắng, rồi não có tia máu hình thù như bị sét đánh,… Loại chất độc có vị hạnh nhân đắng này là loại độc được yêu thích trong tiểu thuyết trinh thám - xyanua. Gần đây, xyanua đã trở thành một chủ đề nóng được quan tâm. Là đại diện xuất sắc của các loại thuốc độc “cao cấp”, xyanua có thực sự là “vua của các loại thuốc độc”?Sự ngạt thở của tế bào dẫn đến tử vong
Có ba loại xyanua thực sự có độc tính cao: natri xyanua (NaCN), kali xyanua (KCN) và axit hydrocyanic (HCN). Một số chất khác, chẳng hạn như kali ferricyanide, mặc dù cũng chứa nhóm cyano (CN), nhưng ít độc hơn vì khó phân ly các ion xyanua (CN-). Về nguyên tắc, xyanua có thể xâm nhập vào cơ thể con người thông qua tiếp xúc với da và niêm mạc miệng, hít phải, uống, tiêm, v.v., sau đó phân ly thành các ion xyanua. Ion này có thể liên kết chặt chẽ với ion sắt sắt (Fe 3+) trong enzyme cytochrome trong cơ thể con người, khiến nó không thể chuyển hóa thành ion sắt hóa trị hai (Fe 2+), dẫn đến một loạt các phản ứng sinh hóa không thể thực hiện được. tiếp tục, khiến các tế bào không còn sử dụng được oxy trong máu và nhanh chóng bị ngạt thở. Đồng thời, do quá trình hô hấp thiếu năng lượng (ATP) tạo ra nên hệ thần kinh trung ương sẽ nhanh chóng mất đi chức năng khiến cơ thể mắc các triệu chứng như liệt cơ hô hấp, ngừng tim, suy đa tạng và tử vong nhanh chóng. . Vậy xyanua độc hại như thế nào? Người ta nói rằng "nói về độc tính ngoài liều lượng là một trò đùa", nhưng liều lượng chất độc gây chết người thường có sự khác biệt riêng, liên quan đến cân nặng, thể lực của một người và thậm chí cả lượng thức ăn còn lại trong dạ dày lúc đó. thời gian. Phiên bản thứ 4 của "Phân tích độc tính pháp y" năm 2009 tin rằng liều kali xyanua gây chết người là từ 50-250 mg, tương tự như liều asen gây chết người (As2O3). Để xác định có gây tử vong hay không, bạn cần xem nồng độ trong máu của chất độc xyanua là khoảng 0,5μg/ml, và nồng độ gây chết người trong máu là ≥1μg/ml Nói một cách hình tượng, nếu dùng đường uống kali xyanua ở dạng rắn, nếu bạn ăn một nắm bột tương đương 1/3 viên nang thông thường hoặc bằng một nửa kích thước của đồng xu 10 xu mới, nó gần như chắc chắn sẽ giết chết ai đó. Và nếu xem xét liều lượng tối thiểu, loại bột kali xyanua có kích thước bằng hạt gạo có thể gây tử vong.Nếu nuốt phải chắc chắn sẽ chết?
Trong tiểu thuyết trinh thám, xyanua luôn là con át chủ bài trong tay điệp viên một khi đã vào trong thì không có cơ hội sống sót. Xyanua có thực sự mạnh đến vậy không? Sau khi phát hiện có vấn đề, nếu nôn ra ngay hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ thì có “sống lại” được không? Nói chung, nếu các biện pháp sơ cứu hiệu quả không được thực hiện sau khi bị ngộ độc, trừ khi liều rất thấp, tử vong thường xảy ra trong vòng 15 phút đến 1 giờ sau khi bị ngộ độc. Khoảng thời gian cụ thể liên quan đến liều lượng chất độc và con đường ngộ độc. . Nếu dùng một lượng lớn xyanua qua đường uống, hoặc bị nhiễm độc qua tiêm tĩnh mạch hoặc hít phải khí axit hydrocyanic nồng độ cao, sẽ mất ý thức, ngừng tim và tử vong trong vòng 1-2 phút, có thể coi là "chớp nhoáng". cái chết” Ngược lại, phải mất khoảng một giờ để ngộ độc thạch tín (asen) xuất hiện các triệu chứng và cái chết có thể không xảy ra cho đến vài giờ hoặc thậm chí vào ngày hôm sau, để lại đủ thời gian cho các bác sĩ cấp cứu. Đồng thời, khả năng hòa tan trong nước của asen kém hơn so với xyanua nên rất dễ kết tủa và bị phát hiện sau khi trộn với rượu. Đây chính là lý do khiến “mức độ ưa chuộng” của xyanua cao hơn asen. Tuy nhiên, dù không may bị ngộ độc xyanua nhưng cũng không phải là vô vọng. Y học hiện đại đã có phương án giải cứu tiêu chuẩn cho việc này, chẳng hạn như hít ngay khí isoamyl nitrit (đổ vào khăn tay rồi bịt miệng và mũi để hít), sau đó tiêm tĩnh mạch natri nitrit hoặc xanh methylene, Giải độc bằng các loại thuốc như 4-dimethylaminophenol, hydroxocobalamin và natri thiosulfate, đồng thời cung cấp các biện pháp phụ trợ như hít oxy, hỗ trợ máy thở, trị liệu bằng oxy cao áp và lợi tiểu thường có thể cứu sống những người bị nhiễm độc. Điều này đã được thực hiện cả ở nhà. và ở nước ngoài Có nhiều báo cáo về việc giải cứu thành công nạn nhân bị ngộ độc xyanua Ngoài ra, vì cả kali xyanua và natri xyanua đều cần phản ứng với axit dạ dày và giải phóng các ion xyanua sau khi đến dạ dày nên chúng có thể phát huy tác dụng tối đa. Do đó, về mặt lý thuyết, nếu bạn đủ may mắn, khi có chứa xyanua. Có điều gì đó không ổn ngay khi chất lỏng lọt vào miệng, bạn có thể tránh được cái chết bằng cách nhổ nó ra ngay lập tức. Tuy nhiên, quá trình sơ cứu này là một cuộc chạy đua với cái chết. Liều xyanua càng lớn thì thời gian dành cho bác sĩ càng ngắn. Hầu hết bệnh nhân bị ngộ độc nặng sẽ chết trên đường đến bệnh viện.Cyanide, sự lựa chọn của những người nổi tiếng
Cyanide có liều lượng gây chết người nhỏ, tử vong nhanh chóng và khó giải cứu. Nó luôn được coi là một chất độc cực mạnh. Trong lịch sử, nhiều người nổi tiếng đã sử dụng nó để tự sát, chẳng hạn như Alan Mathison Turing, người sáng lập ngành khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo, hay Eva Braun, tình nhân của tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã Hitler. Ngoài việc tự sát, các đặc vụ, điệp viên và tội phạm từ nhiều quốc gia khác nhau thường sử dụng xyanua để giết người. Trong Thế chiến thứ hai, Đức Quốc xã đã sử dụng xyanua để giết hàng chục nghìn người Do Thái trong một số trại tập trung, đánh dấu một dấu ấn nặng nề trong lịch sử loài người. Một số bang ở Hoa Kỳ đã sử dụng phòng hơi ngạt để thực hiện các vụ hành quyết bằng cách sử dụng xyanua. Trong hai vụ ngộ độc thuốc cảm Tylenol xảy ra vào năm 1982 và 1986, các nghi phạm còn sử dụng cả xyanua.Xyanua không phải là vô hình
Mặc dù xyanua có hiệu quả nhưng nó không biến mất không dấu vết. Hài cốt của những người chết vì ngộ độc xyanua có một số đặc điểm khiến chúng tương đối dễ nhận dạng và nhận dạng. Ngoại hình: Do cơ chế ngộ độc xyanua là thiếu oxy và ngạt thở tế bào nên máu tĩnh mạch rất giàu oxy trên bề mặt xác chết, đặc biệt là vành tai và dái tai chủ yếu có màu đỏ anh đào, mặt và môi. giải phẫu sau đó có thể thấy máu không đông lại, có màu đỏ tươi, thận, gan và các cơ quan khác bị sung huyết và sưng tấy ở bệnh nhân bị ngộ độc đường miệng, có thể thấy niêm mạc dạ dày chảy máu nhiều. Đồng thời, sử dụng “phương pháp xanh Phổ” với độ đặc hiệu tốt hơn, các ion xyanua còn sót lại có thể dễ dàng được phát hiện trong dạ dày, ruột, tim mạch và những nơi khác, từ đó chứng minh thực tế ngộ độc xyanua Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở người bị ngộ độc qua đường miệng, do ion xyanua rất dễ bay hơi nên ion xyanua còn sót lại trong máu và dạ dày của xác chết giảm nhanh ở nhiệt độ phòng, khiến việc phát hiện lại sau một, hai ngày trở nên khó khăn. . Vì vậy, việc khám nghiệm tử thi phải được thực hiện kịp thời và mẫu phải được lấy từ tá tràng, nơi có ion xyanua dễ bảo quản hơn. Nếu cần, mẫu phải được đông lạnh và bảo quản. Do độc tính mạnh của xyanua, tất cả các quốc gia đã liệt chúng vào danh sách các mặt hàng được kiểm soát chặt chẽ nhất, việc mua và sử dụng chúng đều được giám sát chặt chẽ để ngăn chặn việc sử dụng chúng vào mục đích bất hợp pháp. Hiện nay, xyanua chủ yếu được sử dụng trong thủy luyện và mạ điện trong công nghiệp. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, các giải pháp thay thế đã xuất hiện cho cả hai mục đích sử dụng và các quy trình có chứa xyanua cực kỳ nguy hiểm và gây ô nhiễm cao đã dần dần bị loại bỏ. Sau đó, có thể một ngày nào đó, khi xyanua mất hết công dụng hợp pháp, sẽ không cần phải giữ lại các nhà sản xuất hợp pháp, và những chất đáng sợ như kali xyanua và natri xyanua có thể biến mất khỏi hành tinh của chúng ta mãi mãi.Những vụ án liên quan Xyanua nổi tiếng trong lịch sử
Cyanide đóng vai trò là “sát thủ” trong lịch sử
Vài ngày sau vụ nổ Tân Hải thành phố Thiên Tân, 700 tấn natri xyanua cực độc đã trở thành nguồn nguy hiểm lớn nhất. Việc phát hiện và xử lý chúng đúng cách đã trở thành chủ đề được mọi người quan tâm nhất. Mọi người đều lo lắng rằng các hóa chất độc hại ở mức độ này sẽ gây ra nhiều thảm họa thứ cấp nghiêm trọng hơn cho con người. Vì tính chất cực độc của nó, nhiều cái chết trong suốt lịch sử có liên quan đến xyanua. Từ Göring, nhân vật số 2 của Đức Quốc xã, đến Turing, cha đẻ của máy tính hiện đại; từ phòng hơi ngạt ở Đức cho đến những điệp viên ám sát của KGB. Cyanide đã là kẻ giết người từ lâu trong thế kỷ trước. Cyanide là một trong những chất độc mạnh nhất và tác dụng nhanh nhất mà con người biết đến. Một người có thể tử vong do vô tình nuốt phải 50 miligam xyanua; chất này có trong nhiều loại thuốc diệt chuột mạnh; nếu nuốt phải một lượng vừa đủ chất này, bệnh nhân sẽ bất tỉnh ngay lập tức và chết (ngộ độc xyanua kiểu đột quỵ). Vì độc tính nhanh và gây chết người nên những người tham gia vụ đánh bom vali năm 1944 của lãnh đạo Đức Quốc xã Adolf Hitler đều mang theo xyanua để có thể tự sát ngay sau khi bị kẻ thù phát hiện, không cho kẻ thù có cơ hội thẩm vấn. Tờ New York Times ngày 4/8/1987 đưa tin số liệu thống kê cho thấy trong số các nhà hóa học tự sát, hơn 40% tự sát bằng xyanua. Một trong những người nổi tiếng nhất là Carothers, nhà khoa học trưởng của Phòng thí nghiệm DuPont ở Hoa Kỳ, người phát minh ra nylon, người đặt nền móng cho việc sản xuất cao su tổng hợp hiện đại. Ông gặp phải "sự cản trở của nhà phát minh" và quyết định tự tử bằng cách uống kali xyanua hòa tan trong nước chanh trong một khách sạn vào năm 1937. Câu chuyện về Alan Turing, cha đẻ của máy tính hiện đại, còn đáng buồn hơn: Năm 1952, ông bị kết tội “có hành vi thô tục và không đứng đắn” sau khi thừa nhận có quan hệ tình dục với một người đàn ông khác. Bị buộc phải lựa chọn giữa 18 tháng tù và thiến y tế (uống estrogen, v.v.), anh đã chọn cái sau. Vào ngày 8 tháng 6 năm 1954, Turing không thể chịu đựng được sự sỉ nhục và trừng phạt của phiên tòa và đã kết thúc cuộc đời mình bằng cách ăn một quả táo tẩm xyanua.
ảnh minh họa phim người giải mã diễn viên Benedict Cumberbatch vào vai Alan Turing
Ngoài ra còn có những nhân vật chính trị trong số những người tự sát bằng xyanua: Sau phiên tòa kéo dài 11 tháng, Tòa án Quốc tế Nuremberg, được thành lập sau Thế chiến thứ hai, đã kết án tử hình Hermann Goering, người đứng thứ hai của chế độ Đức Quốc xã, và đang chuẩn bị tự sát vào tháng 10 năm 1946. Bị xử tử vào ngày 15. Nhưng hai giờ trước khi hành quyết, cai ngục phát hiện ra rằng Goering đã tự sát bằng cách uống xyanua. Mặc dù nguyên nhân cái chết của Adolf Hitler còn là điều bí ẩn, nhưng trong số rất nhiều suy đoán, thuyết phục nhất là việc ông ta đầu tiên uống thuốc xyanua rồi tự sát, giết chết ông ta hoàn toàn. Trớ trêu thay, trong quá trình tàn sát hàng triệu người Do Thái và người Di-gan từ năm 1940 đến năm 1945, Đức Quốc xã đã sử dụng một lượng lớn loại khí giết người có tên Zyklon B, cũng là một loại xyanua: khí axit cyanic. Những kẻ chủ mưu của Đức Quốc xã này cuối cùng đã chết vì chất độc giống như nạn nhân của chúng. Chất xyanua có độc tính cao không chỉ là nhân vật chính trong các câu chuyện tự sát mà ngoài việc được sử dụng rộng rãi trong nạn diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã, nó còn được sử dụng từ lâu như một ứng cử viên cho các vụ ám sát và đầu độc. Ở nước Nga thời Sa hoàng, xyanua được giới quý tộc sử dụng để ám sát chính trị. Grigory Yefimovich Rasputin, "ma thuật" dẫn đến việc lật đổ quyền lực của đế quốc Sa hoàng, bị chết đuối vào tháng 12 năm 1916 sau khi ăn phải chất xyanua được các quý tộc bất mãn với ông cho vào thức ăn. Ở Liên Xô sau này, cơ quan tình báo "KGB" kế thừa "truyền thống" sử dụng xyanua của nước Nga thời Sa hoàng. Một sĩ quan KGB đã sử dụng súng hơi được thiết kế đặc biệt để ám sát hai nhà bất đồng chính kiến người Ukraine ở Đức vào năm 1957 và 1959. Loại súng hơi đặc biệt này bắn ra những "đạn" xyanua. Sau khi súng hơi được bắn ra, chất độc do viên nang xyanua nghiền nát tạo ra sẽ tiêm vào mặt đối phương, chất độc sẽ khiến tim ngừng đập. Điều này có thể ngụy trang một cách thuận tiện nguyên nhân cái chết của nạn nhân là một cơn đau tim. Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ cũng rất thành thạo về ngộ độc xyanua. Theo các tài liệu CIA được giải mật, vào tháng 3 năm 1962, CIA đã cử người tới âm mưu đầu độc cựu lãnh đạo Cuba Castro bằng cách sử dụng viên nang chứa xyanua nhưng không thành công. Thời kỳ "Chiến tranh Lạnh" là đỉnh cao của việc sử dụng xyanua trong các vụ ám sát. Sau khi "Chiến tranh Lạnh" kết thúc, vị thế "vũ khí ám sát" của xyanua bắt đầu suy giảm. Mặc dù xyanua có tốc độ nhanh và gây chết người nhưng nếu nạn nhân không ăn quá nhiều, cái chết sẽ không xảy ra ngay lập tức và có thể cứu sống bằng cách điều trị y tế. Năm 2005, một đồ uống bị đầu độc ở Đài Loan, Trung Quốc. Người đầu độc đã sử dụng xyanua. Vụ tai nạn khiến 1 người tử vong và 10 người bị bệnh nặng. 10 người bị bệnh nặng sau đó có mức độ di chứng khác nhau nhưng rất may không ai tử vong. Ngoài ra, một số nạn nhân chết vì ngộ độc xyanua bị bao quanh bởi mùi hạnh nhân đắng đặc trưng của xyanua, mùi này có thể dễ dàng vạch trần âm mưu ám sát. Vì vậy, những vụ ám sát sử dụng xyanua hiện nay rất hiếm. “Giết người” chỉ là “công việc phụ” của xyanua. Cyanide thực sự là một nguyên liệu hóa học cơ bản quan trọng. Ví dụ, natri xyanua chủ yếu được sử dụng trong tổng hợp hóa học cơ bản, mạ điện, luyện kim và tổng hợp hữu cơ của y học, thuốc trừ sâu và chế biến kim loại. Hiện nay, công dụng chính của natri xyanua là chiết xuất vàng, vì vậy, cần sự quản lý nghiêm ngặt hơn nữa trong việc sử dụng Xyanua.
Danh y Biển Thước và vị thuốc ngưu hoàng
Danh y Biển Thước và vị thuốc ngưu hoàng
Biển Thước (chữ Hán: 扁鵲), tên thật là Tần Việt Nhân (秦越人), lại có thuyết tên Tần Hoãn (秦緩), hiệu Lư Y (卢医), là một thầy thuốc trứ danh thời Chiến Quốc và được xem là một trong những danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch của lịch sử Trung Quốc. Tục truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, hậu nhân xếp Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y. Tác phẩm của ông còn có Biển Thước nội kinh, Biển Thước ngoại kinh và Nạn kinh 01. Vị thuốc Ngưu hoàng (tên khoa học là Calculus Bovis) bản thân là sỏi mật của các loài trâu, bò, tê giác. Khi đem phân tích, Ngưu hoàng có chứa nhiều thành phần như acid cholic, acid desoxycholic, acid taurocholic, bilirubin, nhiều acid amin, một số khoáng chất như Fe, Ca, Mg,… Y học cổ truyền đã biết sử dụng Ngưu hoàng làm thuốc từ rất lâu. Ngay trong Bản Kinh, một trong các y văn cổ nhất của y học cổ truyền Trung Hoa đã viết về công dụng của Ngưu hoàng là chủ trị "nhiệt thịnh kinh hoảng" (tương ứng với các triệu chứng sốt cao, mê sảng, bất tỉnh nhân sự như biểu hiện bệnh đột quỵ). Tương truyền thần y Biển Thước (401 - 310 tr.CN, Trung Quốc) là người đầu tiên sử dụng Ngưu hoàng trong điều trị đột quỵ, và người bệnh chính là người hàng xóm của ông. 02. Giai thoại Chuyện kể rằng trong lúc vội vã, người con trai của ông hàng xóm đã lấy nhầm viên Ngưu hoàng (vốn được coi là 1 vị thuốc chữa đau răng vào thời đó) thay cho Thanh mông thạch đưa cho Biển Thước làm thuốc cấp cứu cha mình. Vị thần y không có thời gian kiểm tra lại, nhanh chóng tán nhỏ làm thuốc và cho người bệnh uống. Sự việc chỉ được phát hiện khi người bệnh nhanh chóng hồi phục, và khiến vị danh y vô tình tìm được thêm 1 vị thuốc quý. Biển Thước đã kết luận "do Ngưu hoàng được ngâm trong túi mật của con bò trong suốt một thời gian dài nên tính hàn của nó có thể thấu tới tim gan người bệnh. Nó có thể lọc tim, thông mạch, điều hòa gan và chữa liệt". Như vậy có thể thấy rõ các thầy thuốc đông y đã khẳng định Ngưu hoàng là vị thuốc mang tính Hàn rất mạnh, và do đó thích hợp cho trường hợp hôn mê do Nhiệt. Từ đó có thể suy ra nếu người bệnh hôn mê do những nguyên nhân khác thì dùng bài thuốc chứa Ngưu hoàng không có nhiều ý nghĩa. Đặc biệt với những người trúng phong hàn, cảm lạnh, cũng bị hôn mê ngất xỉu, mà lại cho dùng Ngưu hoàng thì còn gia tăng độ nghiêm trọng của bệnh. 03. An cung ngưu hoàng hoàn và Ngưu hoàng thanh tâm hoàn Hai bài thuốc y học cổ truyền nổi tiếng nhất có vị thuốc ngưu hoàng có tên gọi An cung ngưu hoàng hoàn và Ngưu hoàng thanh tâm. Nhờ hiệu quả đã được chứng minh và công nhận, mà 2 cái tên này đã trở nên quen thuộc với người dân nói chung, người mang nhiều yếu tố nguy cơ tai biến mạch máu não (tiểu đường, máu nhiễm mỡ, cao huyết áp…), người cao tuổi và gia đình người thân có những đối tượng như trên nói riêng. Tuy nhiên cũng do có quá nhiều nguồn thông tin không có chuyên môn mà rất ít người có hiểu biết đầy đủ về An cung ngưu hoàng hoàn và Ngưu hoàng thanh tâm. Do đó đã xảy ra nhiều tai nạn đáng tiếc ở người bệnh dùng không đúng cách 2 sản phẩm trên. Để sử dụng đúng, tận dụng được hết tác dụng của thuốc, người bệnh cần có sự tham vấn của nhân viên y tế. 04. Quy trình sản xuất viên thuốc an cung ngưu hoàng hoànNhững sự thật khoa học về Thuốc chống ung thư từ nhựa cóc được đưa tin trên báo Vnexpress
Những sự thật khoa học về Thuốc chống ung thư từ nhựa cóc được đưa tin trên báo Vnexpress
Nền y học Trung Quốc có những loại thuốc kỳ diệu và bí ẩn - Thuốc chiết xuất từ động vật - Hoa thiềm tố (huachansu). Đây không chỉ là một vị thuốc mang trong mình ranh giới mong manh giữa lợi ích điều trị và tác dụng không mong muốn điển hình của dược chất mà còn mang nhiều thách thức trong quá trình bào chế. Bằng trí tuệ và sự kế thừa của nền văn hóa y học Trung Quốc hàng nghìn năm, y học Trung hoa đã bào chế thành công sản phẩm Huachansu koufuye. Đằng sau mỗi lọ thuốc nhỏ bé ẩn chứa vô số câu chuyện hấp dẫn, có thể vui hay buồn, kỳ lạ hay có thật, nhưng tất cả đều cho chúng ta hiểu sâu hơn về công dụng thần kỳ của của vị thuốc đến từ con vật tưởng như rất đỗi quen thuộc này. 01. Thiềm tô Nhựa cóc (thiềm tô): Nhựa tập trung ở 2 túi chứa tại các bướu phía sau tai. Lấy nhựa bằng cách rửa sạch vùng da, lau khô, kích thích tuyến sau tai cho tiết nhựa ra, hứng vào vật chứa bằng sành, sứ hoặc thủy tinh (nếu dùng vật chứa bằng sắt hoặc kim loại thì nhựa biến màu thành đen). Nhựa mới lấy có màu trắng đục, sau quánh dần rồi ngả màu nâu, vị đắng, có thể gây nôn, nếu văng vào mắt sẽ có cảm giác cay, tê. Thiềm tô có tính độc (độc bảng A, gồm bufogenin, bufotalin, bufotoxin, gammabufotoxin, vulgarobufotoxin). Theo y học cổ truyền, nhựa cóc có tác dụng tiêu thũng, giải độc, giảm đau, chống tích trệ, làm mạnh tim. Dân gian dùng nhựa cóc trị mụn nhọt, lợi răng sưng đau... Một bài thuốc Đông y kinh điển là Lục thần hoàn, có tác dụng trị cảm sốt nặng, mê man, kinh giản, suy tim; thành phần dược liệu bao gồm xạ hương, trân châu, băng phiến, nhựa cóc và ngưu hoàng. 02. Những nghiên cứu khoa học về huachansu ✔ Tổng hợp từ báo Vnexpress cho biết: "Các nhà khoa học Mỹ đã xác nhận huachansu, một loại thuốc Trung Quốc chiết xuất từ nọc cóc khô, với làm lượng chất độc trong mức cho phép, có thể làm chậm sự phát triển của khối ung thư. Sản phẩm Huachansu chiết xuất từ nọc cóc của Trung Quốc được chứng minh là giúp ổn định khối u ung thư. Hàm lượng nọc cóc trong loại thuốc này cao gấp 8 lần mức cho phép thông thường, nhóm nghiên cứu từ Trung tâm ung thư M.D. Anderson, Đại học Texas, cho biết" ✔ Nghiên cứu thí điểm về Huachansu ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, ung thư phổi không phải tế bào nhỏ hoặc ung thư tuyến tụy được thực hiện bởi Đại học Northwestern (Chicago, Mỹ) báo cáo: "Nghiên cứu thực hiện trên 15 bệnh nhân mắc những loại ung thư kể trên, từ tháng 1/2005 đến tháng 7/2006. Các bệnh nhân ung thư được uống thuốc này theo 5 loại liều. Kết quả là, không ai bị ngộ độc nặng. Thuốc cũng giúp ổn định bệnh ở 40% số bệnh nhân trong khoảng 6 tháng. Trong số đó, một bệnh nhân bị ung thư gan đã thu nhỏ được 20% kích thước khối u, đồng thời ổn định bệnh trong hơn 11 tháng. Bệnh nhân này đã được uống thuốc ở liều thấp nhất" ✔ Những cơ chế phân tử về tác dụng chống ung thư của Huachansu - Hoa thiềm tố đã được các nhà khoa học phát hiện- 1, Viên Huachansu ức chế sự phát triển của tế bào ung thư dạ dày ở người thông qua con đường Akt/mTOR
- 2, HuaChanSu ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư biểu mô tế bào gan bằng cách can thiệp vào con đường pentose phosphate thông qua việc điều chỉnh giảm hoạt động và biểu hiện của enzyme G6PD
công dụng diệu kỳ của vị thuốc Nha đảm tử trong sản phẩm DỊCH UỐNG NHA ĐẢM TỬ YADAN-FU YADANZIYOU KOUFURUYE 鸦胆子油口服乳液yadan – fu
công dụng diệu kỳ của vị thuốc Nha đảm tử trong sản phẩm DỊCH UỐNG NHA ĐẢM TỬ YADAN-FU YADANZIYOU KOUFURUYE 鸦胆子油口服乳液yadan - fu
Nha đảm tử còn có tên gọi khác là cây sầu đâu cứt chuột, chù mển, khổ luyện tử, san đực, hạt khổ sâm… Dược liệu mang trong mình tính hàn, vị đắng có tác dụng ức chế hoạt động và ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư, phòng ngừa ung thư di căn. Ngoài ra dược liệu còn có khả năng điều trị sốt rét, bệnh lỵ, tiêu chảy lâu ngày không khỏi.Tên gọi, phân nhóm
Tên gọi khác: Cây sầu đâu cứt chuột, chù mển, khổ luyện tử, san đực (Sầm Sơn), hạt khổ sâm, nha đảm tử, bạt bỉnh (Nghệ An), cứt cò (Vĩnh Linh) Tên khoa học: Brucea ịavanica (L.) Merr. (Brucea sumatrana Roxb.) Thuộc họ: Thanh thất (danh pháp khoa học: Simaroubaceae)Đặc điểm sinh thái
Mô tả
Nha đảm tử là một loại cây nhỏ, có chiều cao khoảng 2m. Trên thân dược liệu có lá mọc so le, lá kẹp lông chim lẻ. Lá có mép hình răng cưa, ở cả hai mặt của lá đều được bao phủ bởi lông mềm. Dược liệu có hoa mọc thành chùm xiêm, hoa đơn tính khác gốc. Quả dược liệu có hình trứng, quả hạch, khi chín quả sẽ có màu đen. Hạt cứng, có hình dẹt, màu nâu đen. Vỏ ngoài của hạt nhăn nheo và có vị rất đắng.Phân bố
Ở Việt Nam, Nha đảm tử mọc hoang ở nhiều nơi trên khắp các tỉnh miền núi, từ Bắc trí Trung. Đặc biệt dược liệu phân bố nhiều ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.Bộ phận dùng, thu hái, chế biến và bảo quản
Bộ phận dùng: Quả dược liệu Thu hái: Từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm Chế biến: Sau khi thu hái, mang Nha đảm tử về phơi hoặc sấy khô. Sau đó bảo quản để dùng dần. Theo kinh nghiệm Việt Nam- Rửa sạch dược liệu để loại bỏ bụi bẩn, phơi khô, cho vào chảo sao qua với lửa nhỏ, giã đập, dùng cùng với những loại thuốc khác.
- Sau khi sao dược liệu với lửa nhỏ, tán thành bột mịn và tạo thành hoàn tán.
- Sau khi thu hái dược liệu, mang quả đập bỏ vỏ và lấy nhân. Sau đó gói trong giấy bản và ép cho ra hết chất dầu. Ngoài ra người bệnh có thể lấy nhân dược liệu cho vào cùi quả nhãn và nuốt.
- Sau khi thu hái dược liệu, lấy nhân quả tán thành bột cùng với một tá dược cho dễ tán (có thể dùng bách thảo sương hoặc bột gạo rang…). Uống bột hoặc tạo thành viên. Một liệu trình là 5 ngày. Mỗi ngày người bệnh có thể uống theo thứ tự như sau (tính theo bột của nhân): 0,08; 0,16; 0,32; 0,16 và 0,08.
- Thuốc thụt: Sau khi thu hái, đập bỏ vỏ, lấy nhân. Thực hiện tán nhân thật mịn với bột bách thảo sương (đồng lượng) để làm thuốc thụt vào hậu môn giúp chữa bệnh. Mỗi ngày thụt khoảng 0,25 gram dược liệu cùng 0,25 gram bách thảo sương.
Thành phần hóa học
Dược liệu Nha đảm tử chứa nhiều hoạt chất quý gồm:- Tanin
- Amydalin
- Quassin
- 23% tinh dầu
- Glucozit (kosamin)
- Saponin.
Tác dụng dược lý
Theo nghiên cứu dược lý hiện đại
- Có tác dụng diệt in vitro, in vivo và ampi dạng hoạt động (nguyên trùng). Tuy nhiên dược liệu có tác dụng kém hơn đối với lỵ mạn tính và lỵ trực khuẩn
- Diệt và tẩy các loại ký sinh trùng: Sán, giun móc, giun đũa, hấp huyết trùng, trùng roi trichomonas
- Tác dụng chống sốt rét: Ức chế sự phát triển của nguyên trùng sốt rét
- Phòng chống bệnh ung thư, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư và phòng ngừa ung thư di căn
- Tác dụng kháng virus: Dược liệu có khả năng ức chế virus cúm típ A PR8.
Theo y học cổ truyền
Dược liệu Nha đảm tử có tác dụng:- Điều trị bệnh lỵ
- Điều trị bệnh sốt rét
- Điều trị bệnh tiêu chảy lâu ngày không khỏi
- Sát trùng
- Ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư, phòng ngừa bệnh ung thư di căn (theo Trung dược học).
Tính vị
Dược liệu có tính hàn, vị đắng.Qui kinh
Qui vào kinh đại tràng.Liều lượng và cách dùng
Liều lượng
Dùng 4 – 16 gram/ngày.Cách dùng
Sấy hoặc phơi khô sau đó tán thành bột mịn, sắc thành nước thuốc để uống hoặc nấu thành cao.Bài thuốc
Những bài thuốc chữa bệnh từ dược liệu Nha đảm tử gồm:- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị ung thư và phòng ngừa ung thư di căn (Bài thuốc 1): Dùng 10 – 20 quả dược liệu đã phơi hoặc sấy khô tán thành bột. Sau đó làm thành viên 0,02 gram nhân đã khử dầu hoặc 0,1 gram toàn quả. Uống 3 viên/ngày. Sử dụng liên tục từ 7 – 10 ngày để bệnh tình được cải thiện.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị ung thư và phòng ngừa ung thư di căn (Bài thuốc 2): Dùng 20 quả dược liệu rửa sạch với nước muối. Mang dược liệu sấy hoặc phơi khô dưới trời nắng gắt. Cho dược liệu vào chảo và sao sơ với lửa nhỏ, giã đập. Cho dược liệu đã giã vào nồi cùng với 1 lít nước. Thực hiện đun thuốc với lửa nhỏ trong 30 phút hoặc cho đến khi lượng nước trong nồi chỉ còn lại một nửa. Chia thuốc thành 3 lần uống trong ngày. Sử dụng 1 thang/ngày cho đến khi bệnh tình có dấu hiệu thuyên giảm.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị sốt rét: Dùng 1 gram quả dược liệu rửa sạch với nước muối. Mang dược liệu sấy hoặc phơi khô dưới trời nắng gắt. Cho dược liệu vào nồi cùng với 600ml nước lọc. Thực hiện sắc thuốc với lửa nhỏ cho đến khi lượng nước trong nồi chỉ còn lại 300ml. Để nguội bớt và chắt lấy phần nước. Sử dụng 3 lần/ngày sau mỗi bữa ăn. Uống liên tiếp 4 – 5 ngày sẽ nhận thấy bệnh tình thuyên giảm, những triệu chứng khó chịu cũng không còn.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị bệnh lỵ mạn tính do amip (bài thuốc 1): Dùng 20 gram dược liệu và 20 gram bách thảo sương. Mang cả hai vị thuốc rửa sạch với nước muối và mang đi phơi khô. Sau khi phơi khô, tán nhuyễn dược liệu. Cho bột dược liệu vào tô cùng với 20 gram sáp ong. Trộn đều hỗn hợp và tạo thành viên. Cho thuốc và lọ thủy tinh có nắp đậy và bảo quản tại nơi khô ráo. Khi cần lấy 10 gram thuốc uống trong ngày với nước lọc. Sử dụng liên tục cho đến khi bệnh tình thuyên giảm.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị bệnh lỵ mạn tính do amip (bài thuốc 2): Dùng 45 gram quả dược liệu đã bỏ vỏ, 15 gram quán chúng, 60 gram sáp vàng và 15 gram ngân hoa thán. Mang Nha đảm tử, quán chúng và ngân hoa thán rửa sạch với nước muối. Mang tất cả vị thuốc sấy hoặc phơi khô dưới trời nắng gắt. Sau đó tán thành bột mịn. Cho sáp vàng vào nồi và nấu chảy. Hòa lượng sáp vàng đã nấu cùng với bột dược liệu, tạo thành viên với kích thước bằng hạt đỗ tương. Người lớn uống 10 – 15 viên/ngày lúc bụng đói. Sử dụng liên tục trong 10 ngày sẽ thấy bệnh tình thuyên giảm rõ rệt.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị bệnh lỵ cấp tính do amip, bụng đau quặn, mót rặn nhiều, đại tiện ra máu và chất nhầy (xích bạch lỵ), sợ lạnh, có sốt: Dùng 20 gram dược liệu, 20 gram hoàng liên gai, 20 gram bồ kết, 20 gram hạt cau, 20 gram đại hoàng, 20 gram hạt dư hấu. Mang tất cả vị thuốc rửa sạch với nước muối. Sau đó mang đi sấy hoặc phơi khô dưới trời nắng gắt. Tán nguyên liệu thành bột mịn, trộn đều. Cho bột dược liệu vào bình thủy tinh có nắp đậy và bảo quản tại nơi khô ráo. Khi cần, lấy 10 gram bột dươc liệu hòa tan cùng với 300ml nước ấm. Uống 2 lần/ngày trong 10 ngày.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị bệnh lỵ cấp tính do amip (thuốc thụt): Dùng 12 bọc nhựa của dược liệu rửa sạch với nước muối. Cho dược liệu vào nồi cùng với 500ml nước lọc. Thực hiện sắc thuốc với lửa nhỏ cho đến khi lượng nước trong nồi chỉ còn lại 200ml. Chắt lấy phần nước và chia thành 3 lần uống trong ngày. Sừ dụng 1 thang/ngày trước bữa ăn. Đồng thời dùng 20 hạt dược liệu đã rửa sạch ngâm cùng với 200ml nước trong 2 giờ. Ngâm dược liệu vào 200ml dung dịch 1% natri bicacbonat từ 1 – 2 giờ sau khi đã thụt rửa đại tràng. Thực hiện 1 lần/ngày trong 10 ngày (một liệu trình).
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị mụn cóc: Dùng nhân dược liệu đã được tiệt trùng bằng cao áp, mang dược liệu nghiền nhỏ. Dùng cồn hoặc cồn iod rửa sạch vùng da bệnh. Dùng dao vô trùng rạch nhẹ da để chảy một ít máu. Dán dược liệu vào vùng da bệnh, dùng băng keo và gạc dán cố định dược liệu. Giữ băng trong 8 ngày, kiêng nước. Sau 8 ngày nếu mụn cóc chưa rụng, dùng cao mềm acid boric bôi lên mụn cóc.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị gai chân: Dùng 11 – 13 nhân dược liệu đã rửa sạch giã nát. Cho 1,5 gram bột Salicylatez vào bột dược liệu, trộn đều. Cho thuốc vào băng keo, cắt thủng một lỗ bằng với vùng bị chai. Đặt thêm một miếng băng keo khác lên chỗ chai, sau đó dán thuốc vào. Giữ nguyên trạng thái trong 10 ngày thì thay băng.
- Bài thuốc từ Nha đảm tử điều trị nốt ruồi: Dùng 3 – 4 gram dược liệu rửa sạch với nước muối. Giã nát dược liệu vào cho vào lọ, thêm cồn 75% bằng lượng thuốc ngâm. Ngâm thuốc một ngày một đêm. Dùng tâm bông thấm thuốc và bôi vào nuốt ruồi. Sử dụng 2 – 3 lần/ngày.
Kiêng kỵ
- Trẻ em, phụ nữ đang cho con bú, phụ nữ mang thai, người tỳ vị hư yếu tuyệt đối không dùng Nha đảm tử bởi trong dược liệu có độc
- Người có tỳ vị hư nhược, nôn mửa không nên dùng dược liệu
- Những người có tiền sử hoặc đang mắc bệnh gan, bệnh thận, chảy máu ruột dạ dày không nên dùng dược liệu.